Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Tuổi đẹp xây nhà năm 2014





1. Tra cứu tuổi Phạm Kim Lâu
Tính theo tuổi âm lịch, ví dụ sinh năm 1971 dương lịch, năm nay 2014 là bao nhiêu tuổi Âm Lịch, lấy 2014 – 1971 = 43 + 1 = 44 tuổi, các tuổi khác cũng tính như vậy.
Năm 2014 những tuổi sau phạm phải Kim Lâu:
Tuổi âm lịch: 21, 24, 26, 28, 30, 33, 35, 37, 39, 42, 44, 46, 48, 51, 53, 55, 57, 60, 62, 64, 66, 69, 73, 75
2. Tra cứu tuổi Phạm Hoang Ốc:
Năm 2014 những tuổi sau phạm Hoang Ốc:
Tuổi phạm Địa sát: 12,18,21,27,30,36,45,54,63,69,72,78
Tuổi phạm Thụ tử:14, 23, 29, 32, 38, 41, 47, 50,56, 65, 74.
Tuổi Phạm Hoang Ốc: 15, 24, 33, 39, 42, 48, 51, 57, 60, 66, 75 (rất xấu)
3. Tra cứu tuổi Phạm Tam Tai:
Mỗi người cứ 12 năm thì sẽ bị 3 năm Tam Tai liên tiếp nhau; trong năm 2014 Giáp Ngọ những tuổi sau sẽ phạm tuổi Tam tai:
Tuổi âm lịch: 20, 24, 28, 32, 36, 40, 44, 48, 52, 56, 60, 64, 68, 72
Lưu ý:
- Nếu phạm vào 1 trong 3 yếu tố trên như Hoang Ốc ( Địa Sát, Thụ Tử) hoặc Tam Tai thì còn có thể dùng được;
- Phạm tuổi Kim Lâu thì không nên xây nhà;
- Phạm vào 2 trong 3 yếu tố trên thì không nên tiến hành xây dựng, tu tạo nhà ở, vì sẽ xảy ra tai nạn đáng tiếc.
4. Tránh tuổi năm Hạn
Ví dụ: Người tuổi Ngọ năm hạn là năm Ngọ, Người tuổi Dần năm hạn là năm Dần …. Năm sinh mà trùng với năm định làm nhà như vậy người ta gọi là Phạm Thái Tuế.
Như vậy: trong bảng trên, chủ nhà sinh năm 1990 (Canh Ngọ) không phạm: Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu nhưng gặp phải năm hạn (phạm Thái Tuế) => nên cũng là không tốt.
5. Tránh năm xung khắc với năm của chủ nhà
Năm 2014 là năm Giáp Ngọ - Mệnh niên là: Sa Trung Kim (Vàng trong cát).
Tránh xung với Thái Tuế: Thái tuế năm 2014 là năm Ngọ, có nghĩa là những người tuổi Tý cũng không nên làm nhà vào năm Giáp Ngọ.
Như vậy tuổi Giáp Tý không phạm Tam Tai, Hoang Ốc, Kim Lâu nhưng gặp năm Giáp Ngọ (xem thêm tứ hành xung Mục D) => nên cũng không tốt.
Năm có Hành khắc với Mệnh niên chủ nhà: Chủ nhà Mệnh Mộc gặp năm Kim ( theo thuyết Ngũ hành Kim khắc Mộc) => không tốt;
CÁCH TÍNH TOÁN TUỔI XẤU VÀ Ý NGHĨA
A- Phạm phải Kim Lâu?
Theo các tài liệu mà tác giả đọc được thì đều khuyên không xây nhà năm Phạm Kim Lâu. Kim Lâu có mấy dạng sau đây:
Tuổi Kim Lâu 1 ( Kim Lâu Thân): Làm nhà vào tuổi này thì bản thân người làm nhà sẽ bị hại ( ốm đau, bệnh tật, tai nạn…có thể chết người) nên rất kỵ nếu bạn phạm phải Kim Lâu 1.
Tuổi Kim Lâu 3 ( Kim Lâu Thê): Mang đến tai họa cho vợ;
Tuổi Kim Lâu 6 ( Kim Lâu tử): Mang hại cho con;
Tuổi Kim Lâu 8 ( Kim Lâu Lục Súc): Hại cho vật nuôi, làm ăn thất bát.
Cách tính Kim lâu đó như thế nào ? Đó là việc dựa vào nguyên lý Cửu Cung theo Cửu tinh đồ. Nếu bạn không có kiến thức về Phong Thủy thì có thể làm theo cách tính đơn giản như sau:
- Sinh năm: 1984 => tuổi âm của bạn: 2014-1984+1=31 (tuổi). 3+1 = 4: =>Tuổi 31 không phạm Kim Lâu. ( Nhiều tài liệu hay dân gian nói tuổi 31 phạm Kim Lâu là không chính xác).
- Sinh năm: 1980 => tuổi âm của bạn: 2014-1980+1=35 (tuổi). 3+5 = 8: => Phạm Kim Lâu súc, sẽ có hại cho vật nuôi, kinh tế.
- Sinh năm: 1976 => tuổi âm của bạn: 2014-1976+1=39 (tuổi). 3+9 = 12 ( Khi tổng vượt quá số 9 bạn đem trừ cho: 9, vậy được số: 3: => Phạm Kim Lâu Thê, sẽ mang hại cho vợ;
B - Phạm phải Hoang Ốc ?
Hoang Ốc có nghĩa là ngôi nhà hoang. Nhà hoang là nơi ma quỷ. Nên tránh làm nhà năm phạm phải Hoang Ốc.
Cách tính phạm Hoang Ốc dựa theo nguyên tắc Âm Lục ( 6 cung) của Dịch Học. Phần này tác giả xin không trình bày vì sẽ làm bạn đọc khó hiểu hơn, nhưng việc tính ra tuổi phạm Hoang Ốc tác giả đã trình bày trong bài này rồi, các bạn nên đọc kỹ để áp dụng.
C - Phạm phải Tam Tai ?
Năm Tam Tai mà làm nhà thì dễ gặp điều không may hay gặp các tai họa không lường trước được.
Cách tính năm Tam Tai như sau:
Sinh năm Thân, Tý, Thìn sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Dần, Mão, Thìn;
Sinh năm Tị, Dậu, Sửu sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Hợi, Tý, Sửu;
Sinh năm Hợi, Mão Mùi sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Tị, Ngọ, Mùi;
Sinh năm Dần, Ngọ, Tuất sẽ phạm Tam Tai vào các năm: Thân, Dậu, Tuất;
Tuổi của tôi không hợp thì có thể xây nhà được không?
Nếu do yêu cầu bắt buộc phải xây nhà trong năm nay, mà các bạn bị vi phạm những yếu tố trên cũng đừng nên lo ngại,. Bạn có thể tiến hành mượn tuổi của những người nam giới không bị phạm trong năm để nhờ xây dựng nhà cửa. Nếu được thì nên chọn những người đứng tuổi, thọ, phúc lộc dồi dào, con cháu đông là tốt nhất. Tuy nhiên cần nhớ rằng, việc mượn tuổi để xây nhà là một biện pháp thiên nhiều về tâm lý, mọi chuyện tốt xấu sẽ vẫn xảy ra với chủ nhà chứ không phải vì mượn tuổi mà xảy ra với người kia.
D Tam Hạp (Tam Hợp) – Tứ Hành Xung là gì? Nguyên tắc tính cụ thể?
Thông thường người này hạp tuổi người kia hoặc người này kỵ tuổi này người kia kỵ tuổi kia v.v… dựa trên 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gọi là Tam Hạp và Tứ Hành Xung
Theo cách hình học thì nếu như đem 12 con giáp này chia đều nhau trên một hình tròn thứ tự như dưới thì tà sẽ có 4 tam giác cân và 3 hình chữ thập:
Trong đó 4 tam giác cân được tượng trưng cho 4 bộ Tam-Hạp: các tuổi cách nhau 4, 8, 12, 16, 20, … tuổi
* Tỵ – Dậu – Sửu (tạo thành Kim cuộc)
* Thân – Tý – Thìn (tạo thành Thủy cuộc)
* Dần – Ngọ – Tuất
* Hợi – Mẹo – Mùi (tạo thành Mộc cuộc)
Và 3 hình chữ thập tượng trưng cho 3 bộ Tứ-Hành-Xung: các tuổi cách nhau 3, 6, 9, 12, 15, 18, 21 …. tuổi
* Dần – Thân – Tỵ – Hợi
* Thìn – Tuất – Sửu – Mùi
* Tý – Ngọ – Mẹo – Dậu
Mỗi cụm tứ xung , nếu xét kỹ sẽ thấy:
1 – Tý và Ngọ khắc kị , chống đôi nhau mạnh. Còn Mẹo và Dậu cũng vậy. Nhưng Tý và Mẹo hay Dậu chỉ xung nhau chớ không khắc mạnh. Ngọ với Mẹo hay Dậu cũng xung nhau chứ không khắc chế.
2 – Thìn khắc chế và kị Tuất. Sửu khắc chế Mùi. Còn Thìn chỉ xung với Sửu, Mùi. Tuất chỉ xung với Sửu và Mùi.
3 – Dần khắc chế Thân. Tỵ khắc chế Hợi. Dần xung với Hợi . Thân cũng vậy .
Ngoài ra lưu ý Tứ hành xung lục hại (tuổi khắc):
1 – Mùi – Tý gặp nhau lắm tai họa
2 – Ngọ – Sửu đối sợ không may
3 – Tỵ – Dần tương hội thêm đau đớn
4 – Thân – Hợi xuyên nhau thật đắng cay
5 – Mão – Thìn gặp nhau càng khổ não
6 – Dậu – Tuất nọ trông lắm bi ai
Thuyết âm dương ngũ hành
Âm dương:
Âm dương không phải là vật chất cụ thể, không gian cụ thể mà thuộc tính của mọi hiên tượng mọi sự vật, trong toàn thể vũ trụ cũng như trong từng tế bào, từng chi tiết.
Âm dương là hai mặt đối lập: Mâu thuẫn – Thống nhất, chuyển hoá lẫn nhau, dựa vào nhau mà tồn tại, cùng triệt tiêu thay thế nhau. Trong dương có mầm mống của âm, ngược lại trong âm có mầm mống của dương. Trong tất cả các yếu tố không gian, thời gian, vật chất ý thức đều có âm dương. Âm dương không những thể hiện trong thế giới hữu hình kể cả vi mô và vĩ mô mà còn thể hiện cả trong thế giới vô hình, hay gọi là thế giới tâm linh như tư duy, cảm giác, tâm hồn …từ hiện tượng đến bản thể..
Ngũ hành:
Có 5 hành: Hoả (lửa), Thổ (Đất), Kim (Kim loại), Thuỷ (nước, chất lỏng). Mộc (cây cỏ). Theo quan niệm cổ xưa thì mọi vật chất trong vũ trụ đầu tiên do 5 hành đó tạo nên.
Ngũ hành có quy luật sinh, khắc chế hoá lẫn nhau. Để bạn đọc dễ hiểu, dễ nhớ chúng tôi xin trình bày luật tương sinh, tương khắc dưới dạng mấy câu ca dao sau:
Ngũ hành sinh:
Ngũ hành sinh thuộc lẽ thiên nhiên:
Nhờ nước cây xanh mới mọc lên (Thuỷ sinh mộc- màu xanh)
Cây cỏ làm mồi nhen lửa đỏ (Mộc sinh hoả- màu đỏ)
Tro tàn tích lại đất vàng thêm (Hoả sinh thổ: Màu vàng)
Lòng đất tạo nên kim loại trắng ( Thổ sinh kim: màu trắng)
Kim loại vào lò chảy nước đen (Kim sinh thuỷ- màu đen)
Ngũ hành tương khắc:
Rễ cỏ đâm xuyên lớp đất dày ( Mộc khắc thổ: Tụ thắng tán)
Đất đắp đê cao ngăn lũ nước (Thổ khắc Thuỷ: Thực thắng hư)
Nước dội nhanh nhiều tắt lửa ngay (Thuỷ khắc hoả: chúng thắng quả, nhiều thắng ít)
Lửa lò nung chảy đồng, chì, thép (Hoả khắc kim: Tinh thắng kiên)
Thép cứng rèn dao chặt cỏ cây ( Kim khắc mộc: cương thắng nhu).
Ngũ hành chế hoá:
Chế hoá là ức chế và sinh hoá phối hợp nhau. Chế hoá gắn liền cả tương sinh và tương khắc. Luật tạo hoá là: mọi vật có sinh phải có khắc, có khắc sinh, mới vận hành liên tục, tương phản tương thành với nhau.
Mộc khắc Thổ thì con của Thổ là Kim lại khắc Mộc
Hoả khắc Kim thì con của Kim là Thuỷ lại khắc Hoả
Thổ khắc Thuỷ thì con của Thuỷ là Mộc lại khắc Thổ
Kim khắc Mộc thì con của mộc là Hoả lại khắc Kim
Thuỷ khắc Hoả thì con của Hoả là Thổ lại khắc Thuỷ
Nếu có hiên tượng sinh khắc thái quá không đủ, mất sự cân bằng, thì sẽ xảy ra biến hoá khác thường. luật chế hoá duy trì sự cân bằng: bản thân cái bị khắc cũng chứa đựng nhân tố (tức là con nó) để chống lại cái khắc nó.
Hướng dẫn làm thủ tục mượn tuổi:
+ Trước khi làm nhà, gia chủ làm giấy tờ bán nhà tượng trưng cho người mượn tuổi
+ Khi Động thổ, người mượn tuổi thay gia chủ tiến hành khấn vái và động thổ.
+ Trong thời gian làm lễ, gia chủ phải lánh xa khỏi khu vực hành lễ.
+ Các công đoạn Đổ mái, người mượn tuổi vẫn tiến hành thay gia chủ làm lễ, gia chủ tiếp tục tránh mặt.
+ Khi Nhập trạch, người mượn tuổi làm nốt các thủ tục dâng hương, khấn thành, rồi bàn giao lại nhà cho gia chủ.
+ Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà (với giá cao hơn giá bán nhà ở trên) và khấn cầu lễ nhập trạch.

Dự đoán phong thủy năm 2014

Jean Sy, nhà phong thủy ở Manila, Philippines, nói rằng năm 2014 là một năm thành công và thuận lợi về mặt tiền bạc cho những người tuổi Tí, Ngọ, Mão, Dậu, tuy nhiên lại không thuận lợi về mặt sức khỏe và các mối quan hệ.
Đối với những người sinh ra vào năm Dần, Hợi, Thìn, Tỵ và Tuất, nhà phong thủy cho rằng năm 2014 sẽ không thật sự được suôn sẻ bởi có "sao hạn" gây ra những tiêu cực và trở ngại cho họ. Tình trạng tài chính của những người này không ổn định và họ cũng phải chú ý giữ gìn sức khỏe.
Đây lại là năm may mắn cho những người tuổi Thân, Mùi và Sửu khi họ có một sự nghiệp thịnh vượng. Về mặt nghề nghiệp, những người trong ba tuổi kể trên sẽ nhận được những điều bất ngờ tốt đẹp mà họ không hề ngờ tới. Sẽ có những khó khăn nhất định nhưng họ sẽ dễ dàng vượt qua bởi có những cát tinh, hay ngôi sao may mắn, giúp đỡ họ.
Bà Sy có bằng chứng nhận về phong thủy ở Malaysia 4 năm trước và nghiên cứu, thực hành phong thủy trong 7 năm qua. Bà cũng cho biết rằng màu may mắn cho năm 2014 là màu xanh nước biển và màu vàng, những màu đại diện cho các yếu tố thủy và thổ. Màu xanh và vàng sẽ cân bằng những yếu tố còn thiếu của năm Ngọ.
"Các nguyên tố của năm Giáp Ngọ là Kim, Hỏa và Mộc, vì vậy Thủy và Thổ là những nguyên tố cân bằng", bà nói với tờ SunStar.
Màu xanh sẽ tăng cường nguyên tố Thủy, tốt cho các mối quan hệ và sự giao thiệp, trao đổi thông tin, trong khi màu vàng sẽ cân bằng các yếu tố tiền tài, sức khỏe và sự thành công.
ngua-xanh-4379-1387943819.jpg
Nhà phong thủy nhận định màu xanh của thủy sẽ là màu may mắn để chế ngự yếu tố hỏa của năm. Ảnh: Freedisgnfile
Trong lĩnh vực chính trị, nhà phong thủy Philippines dự đoán các nhà lãnh đạo tài năng sẽ xuất hiện năm nay từ những cá nhân tuổi Hợi, Mão và Mùi, bởi họ được sinh ra để làm lãnh đạo và có các kỹ năng về ngoại giao.
Về tình hình thiên tai, Sy dự đoán năm Giáp Ngọ này sẽ có nhiều hỏa hoạn, núi lửa phun trào, động đất và hạn hán nhiều hơn, nhưng sẽ ít phải hứng chịu các cơn bão hơn.
Năm 2014 cũng được dự đoán là một năm nhiều cạnh tranh, ganh tị, bất an và nhiều âm mưu, nhưng đồng thời cũng có những niềm vui và những mối quan hệ tốt.
Chuyên gia phong thủy khác của trang Chinese Astrology cũng cho biết 2014 là năm Giáp Ngọ mang tính dương, trong khi bản thân ngựa lại bao gồm chủ yếu là nguyên tố hỏa. Vì vậy, năm 2014 là năm gỗ gặp lửa, biểu đồ tương sinh này có quá nhiều lửa và mất cân bằng, gây nhiều yếu tố tiêu cực.
Ngọn lửa làm bùng cháy cả những người điềm đạm nhất, còn những người nóng nảy hơn cũng sẽ gặp một số khó chịu trong các mối quan hệ và làm ăn. Những người mang mệnh Thổ, Hỏa sẽ có một năm rất tốt, người mang mệnh Mộc và Thủy sẽ tạm ổn và những người mang mệnh Kim thì gặp khó khăn một chút. 
Ngoài ra, con ngựa là biểu tượng của sức mạnh, sự ổn định, sự kiên trì, độc lập, nhưng cũng có bướng bỉnh, hạn hẹp và sự thù địch. Vì thế các nhà phong thủy khuyên sử dụng đồ trang sức màu xanh nước biển để giảm bớt những tác động tiêu cực trong năm 2014. 
theo vnexpress

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2014

Góc nhìn về núi Ba Vì

Đỉnh Ba Vì là nơi "tỏa khí" thì chân Ba Vì không thể là nơi "tụ khí". Đặt trung tâm hành chính quốc gia ở chân Ba Vì là chúng ta xây một "Ẩn Long", không còn là Thăng Long nữa.

Đó là quan điểm của Kiến trúc sư Trần Thanh Vân, nguyên chuyên viên Viện Kiến trúc đô thị - nông thôn (Bộ Xây dựng), người từng có 40 năm trong nghề kiến trúc cảnh quan, chuyên nghiên cứu khoa học phong thủy.

Trò chuyện với VnEconomy, bà Trần Thanh Vân nhìn nhận, phong thủy không phải là vấn đề mê tín, tâm linh, mà một khoa học thực sự, liên quan đến mối quan hệ tương tác giữa con người với thiên nhiên. Trong quy hoạch xây dựng một đô thị, một vùng dân cư, các nhà quy hoạch nên xác định các địa điểm công năng hợp với thiên nhiên, khí hậu, địa hình địa chất và thủy văn, đảm bảo cho đô thị phát triển bền vững và trường tồn. Cơ sở khoa học đó đã được vua Lý Thái Tổ chỉ ra trong chiếu dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, với mong muốn kinh đô phải ở thế tựa núi, nhìn sông, để "rồng cuộn, hổ chầu".

Với Thủ đô Hà Nội xưa và nay, yếu tố phong thủy nhìn chung được thể hiện như thế nào, theo bà?

Sau 1.000 năm, Thủ đô Hà Nội đã có rất nhiều thay đổi, ảnh hưởng không nhỏ tới cấu trúc phong thủy, trong đó thay đổi lớn nhất là dân số đã phát triển lên gấp rất nhiều lần thời điểm năm 1010. Đất chật người đông là một vấn nạn lớn, khiến chúng ta phải chật vật xoay xở theo kiểu khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.

Thay đổi tiếp theo là hệ thống đê điều dài 1.600 km đã ngăn sông Hồng đưa phù sa bồi đắp làm màu mỡ đồng bằng Bắc Bộ sau mỗi mùa nước lên, khiến đáy con sông mỗi năm một nâng cao, nên mùa mưa thì nước lũ như sắp tràn mặt đê, còn mùa khô thì dòng sông cạn kiệt, đe dọa mùa màng, đời sống dân cư hàng ngày.

Thủ đô hôm nay đã mở rộng tới 3.344 km2, đó là một thuận lợi rất lớn và cũng đặt ra nhiều thử thách mà các nhà quy hoạch cần vận dụng sự hiểu biết tổng hợp để hoạch định bức tranh đô thị trong tương lai.

Trong suốt 700 năm của ba triều đại Lý, Trần, Lê, dân số nhìn chung ít và kinh thành Thăng Long không có nhiều thay đổi. Hoàng thành nhỏ hẹp ở phía Nam Hồ Tây, quân lính bảo vệ kinh thành đồn trú ở phường Nhật Chiêu phía Bắc Hồ Tây, án ngữ toàn bộ sông Hồng và ngã sông Đuống.

Nằm giữa hai bộ phận trên là "não thủy" hồ Tây. Nơi đó cách đỉnh Ba Vì 26 km theo đường chim bay. Nếu đỉnh Ba Vì là nơi "tỏa khí", thì vùng này là nợi "tụ khí". Hồ Tây là nơi tạo nên niềm kiêu hãnh của văn hóa Thăng Long, nơi có huyệt đạo quốc gia, nơi lui tới của anh hùng hào kiệt, nơi tập trung các phường hội thủ công buôn bán.

Đặc biệt góc Tây Nam là bến Hồng Tân - khu vực chợ Bưởi ngày nay - là ngã ba "tam hợp", nơi sông Tô Lịch gặp sông Thiên Phù nối với Hồ Tây qua phường Hồ Khẩu, có thuyền buôn trong nước ngoài nước ra vào tấp nập.

Từ đầu thế kỷ 19, kinh đô chuyển vào Huế, thành phố Hà Nội - đô thị hành chính phục vụ chính quyền bảo hộ - xuất hiện. Sông Tô Lịch bị thu hẹp, ngã ba "tam hợp" bị xóa, trung tâm thương mại chuyển sang phía Đông Nam thành phố. Hồ Lục Thủy, nơi thủy binh tập trận thời Lê - Trịnh trở thành hồ Hoàn Kiếm, còn hồ Tây và các phường hội quanh hồ trở thành làng xã của huyện ngoại thành Từ Liêm.

Quy hoạch cũ của người Pháp có lúc vẽ hồ Tây là một "đại công viên", nhưng có lẽ vì thiếu ngân sách, ý tưởng đó mới chỉ dừng lại trên bản vẽ.

Đề xuất về địa điểm xây dựng trung tâm hành chính quốc gia gần chân núi Ba Vì đang nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Bà nghĩ sao về đề xuất này?

Đến nay, qua 4 lần báo cáo, dễ nhận thấy trong đồ án quy hoạch Hà Nội có một đô thị lõi và 5 đô thị vệ tinh. Tuy nhiên, điều mà nhiều nhà khoa học quan tâm là trong đồ án quy hoạch này, khu vực tạm gọi là "hoàng thành" nằm ở đâu?

Ai cũng biết rằng, ngày xưa, hoàng thành là nơi vua ở, là bộ mặt của đất nước. Ngày nay không có vua, nhưng vẫn có những người cầm đầu đất nước. Ta gọi đó là trung tâm chính trị hay trung tâm hành chính quốc gia đều được.

Chính vì vậy, nó phải là nơi thể hiện bộ mặt của Thủ đô, nơi linh thiêng, ổn định, trường tồn. Để đảm bảo vị thế của dân tộc với bên ngoài, lòng tin của nhân dân và biểu tượng trường tồn của đất nước, thủ đô của quốc gia nào cũng cần phải có "hoàng thành" xứng đáng.

Tôi xin nhắc lại, theo phong thủy, đỉnh Ba Vì là nơi tỏa khí thì chân Ba Vì không thể là nơi tụ khí. Đó là "góc chết" của vòng tròn vận khí, đặt trung tâm hành chính quốc gia ở chân Ba Vì là ta xây một "Ẩn Long", không còn là một Thăng Long nữa.

Vậy theo bà, nếu nhìn bằng "con mắt" phong thủy thì trung tâm hành chính quốc gia nên đặt ở đâu?

Theo một số chuyên gia về phong thủy - kiến trúc, việc chọn đất xây dựng "hoàng thành" nên xem xét một trong hai khả năng sau. 

Khả năng thứ nhất là chọn nơi tụ khí linh thiêng và nơi địa tầng ổn định. Nơi tụ khí linh thiêng nhất là Tây Hồ Tây. Đó là nơi duy nhất còn lại của "não thủy". Đáng tiếc là khu vực Tây Hồ Tây, thuộc phường Xuân La, đã được Hà Nội duyệt xây khu đô thị, trung tâm thương mại, tài chính, khách sạn, biệt thự do Hàn Quốc đầu tư trên diện tích 210 ha. Khả năng thứ hai là chọn nơi ổn định, địa tầng không bị sụt lún, đảm bảo sự trường tồn. Đó có thể là vùng huyện Quốc Oai, bên bờ sông Đáy.

Núi tổ Ba Vì, ngôi vị số 1

Thực hư ‘ngôi vị cao nhất’ của núi Tổ Ba Vì

Mặc dù chỉ cao 1.296m (thấp hơn núi Tam Đảo - 1.581m) nhưng từ lâu, núi Ba Vì đã được nhân dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất với câu ca: “Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn”.


Núi Ba Vì được coi là ngọn núi Tổ của người Việt. Ảnh: thanhtanvien.com.
Núi Ba Vì được coi là ngọn núi Tổ của người Việt. Ảnh: thanhtanvien.com.

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, núi Ba Vì được đánh giá cao nhất trong tâm thức dân gian chứ không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý. Trong sách Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết : “Núi ấy là núi Tổ của nước ta đó”.

Nếu lấy núi Nghĩa Lĩnh (cố đô của nước Văn Lang thời tiền sử) làm tâm điểm thì núi Ba Vì và núi Tam Đảo là hai điểm đối xứng tạo thành “Thế tay ngại” trong luật phong thủy do triều đại vua Hùng tạo lập.Truyền thuyết kể rằng, từ lâu, ngọn núi này đã được coi là ngọn núi thần kỳ, một trong những ngọn núi cổ nhất của nước Đại Việt. Nó là nơi ngự trị muôn đời của Thánh Tản Viên - Sơn Tinh, vị thần tối linh trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Cũng theo truyền thuyết kể lại, núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao, để ngăn nước lũ chống Thủy Tinh.
Hiện, quanh núi Ba Vì nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi đồng nội, tên dòng sông, khe suối, địa danh, địa hình, địa vật, đầm hồ, bờ bãi, đình, đền, miếu mạo và những con người còn in đậm trong sự tích và chuyện kể dân gian xứ Đoài gắn liền với truyền thống Sơn Tinh. Đó là đồi Mòm, dãy gò Choi thuộc vùng Tòng Lệnh, ở phía Bắc núi Ba Vì; những trái núi ở vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán; những hòn núi Chẹ và dãy nũi đá Chèm ở phía Tây thuộc mạn Sông Đà; những dãy đồi Máng Sòng, Đồi Giếng ở phía Đông núi Ba Vì là những chiến tích của Sơn Tinh, ngày đêm gánh đất để lập thành phòng tuyến chống lại Thủy Tinh.

Tương truyền, núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng lên cao để ngăn nước lũ chống Thủy Tinh. Ảnh: giacngo.com.
Về sự tích "Đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt”. Chuyện xưa kể lại rằng đồi Vai cao nhất ở xã Kim Sơn là tảng đá rơi vì sọt thủng, còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều trên dọc con đường Sơn Tinh gánh đất. Chuyện cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt mây thành rừng quanh núi U bò, ném lạt tre tạo thành lũy tre dày ở vùng ngòi lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống tạo thành mười sáu ngả ở vùng Đầm Đượng … là những phương kế của Sơn Tinh.
Trên bãi chiến trường xưa còn có nhiều dấu tích như suối Di, sông Tích, ngòi Tôm, đầm Mom, đầm Mít, đầm Sui, xóm Rùa, xóm Cá Sấu ở Vân Sơn xã Vân Hòa; thôn Rắn Giải ở Phụ Khang thuộc xã Đường Lâm; Thuồng Luồng ở Cầu Hang vùng sông Tích thuộc xã Thanh Mỹ; Thủy quái ở Ghềnh Bợ trên dải sông Đà… là những trận đồ tàn binh, bại tướng của Thủy Tinh. Những truyền thuyết dân gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chững tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng núi Ba Vì trù phú như ngày nay.
Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh - Thủy Tinh, mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh, còn thân rồng chạy suốt tời phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Để nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy) dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm tà triệt long mạch nước ta. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập, nên chúng đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng của nước Đại Việt...
Chính vì vai trò quan trọng trong cả đời sống tâm linh người Việt cũng như vị trí chiến lược của nó trong công cuộc chiến đấu bảo vệ giang sơn, xã tắc mà dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh mạng thứ 17 (1836) đúc “Cửu Đỉnh” - biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của nhà Nguyễn - vua đã cho chạm hình núi Tản Viên (ngọn cao nhất trong dãy Ba Vì) vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg) cùng với cửa Cần Giờ và sông Thạch Hãn. Đời Tự Đức năm thứ 3, Canh Tuất (1850) lại liệt Tản Viên vào hàng những núi hùng vĩ - giang sơn của đất nước và được ghi chép vào Tự điển để cúng tế hằng năm.


Tin tức nguồn: http://www.xaluan.com/

Long mạch Ba Vì

Long mạch Ba Vì

* theo góc nhìn của linh nghiệm
Long mạch Ba Vì, khởi nguồn từ phần cuối của dãy núi Ai Lao Sơn, đoạn tận cùng phía đông nam của dãy núi Himalaya.
Để tìm long mạch, chúng ta cần biết qua nguyên tắc tìm long mạch:

(1) Long mạch xuất ra từ Thiên môn. Nơi khởi nguồn của dòng nước, là nơi long mạch rời khỏi núi tổ tông.
(2) Long mạch phải có nước, không có nước là không có chân khí.
(3) Khởi đầu long mạch: nơi đầu nguồn dòng chảy, có hai đường nước chảy hai bên.
(4) Long mạch mạnh: có núi hộ vệ (hộ long, giáp long) kéo dài.
(5) Kết thúc long mạch: nơi đường nước tụ lại.
(6) Long mạch đi ra từ thiên trì là đại cát.
Long mạch Ba Vì là long mạch quý, bao gồm đầy đủ cả 6 yếu tố trên: Khởi đầu long mạch có ao trời Nhĩ Hải ở độ cao trên 2000m, là nơi tụ khí. Từ đây dòng nước chảy khỏi Thiên môn, qua nhánh Tây Nhĩ Hà. Từ Tây Nhĩ Hà, bắt đầu tỏa ra hai nhánh là Lễ Xã giang (đầu nguồn sông Hồng), và Xuyên Hà (đầu nguồn sông Đà). Đây cũng là khởi đầu của long mạch Ba Vì. Có một sự trùng hợp rất thú vị, ao trời là vùng hồ lớn mênh mông nằm trên đỉnh núi cao, lại hình như cái tai nên được gọi là Nhĩ Hải. Đoạn chảy về đến Hà Nội, cũng uốn khúc như hình cái tai, nên xưa được gọi tên là Nhĩ Hà.

Long mạch Ba Vì là long mạch mạnh, có long mạch hai bên (còn gọi là Giáp long) chạy theo bảo vệ trong suốt quá trình di chuyển. Những yêu cầu cơ bản của giáp long, đều thấy trên các long mạch bảo vệ hai bên long mạch Ba Vì:
- Hộ tống long mạch chính trên suốt chặng đường, cũng sinh nhiều đỉnh núi cao, nên dễ lầm tưởng là chính long khác.
- Quan sát từ khởi nguồn long mạch Ba Vì, ta sẽ dễ dàng nhận ra điều này, có hai long mạch hai bên chạy theo cho đến gần Hà Nội hiện nay. Đó cũng là lý do một số nhà phân tích lầm tưởng là các long mạch khác.
Đoạn long mạch vào Việt Nam, đi qua Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ,…
- Có chân mạch, có núi ôm vòng & đường nước bao bọc, nhưng chỉ kết huyệt nhỏ.
- Các đỉnh núi sinh ra của giáp long, đều chầu về long mạch chính.
- Tận cùng giáp long, là ngọn núi trấn giữ thủy khẩu, hoặc là triều sơn cho chính long. Như đã nói ở trên, dãy núi Tam Đảo thuộc giáp long, một phần núi trong dãy Tam Đảo là triều sơn của chính long – núi Ba Vì, chứ đây không phải là cặp Thanh Long – Bạch Hổ.
Sau khi vào lãnh thổ Việt Nam, có thể quan sát thấy giáp long bên trái là dãy núi Tam Đảo, dãy núi Con Voi; Giáp long bên phải là cao nguyên Mộc Châu. Còn long mạch Ba Vì chính là dãy núi Hoàng Liên Sơn.
Là long mạch mạnh, với chiều đi dài và hùng vĩ như vậy, trước khi kết huyệt, bắt buộc phải trải qua quá trình “bác hoán” long mạch, còn gọi là quá trình “lột xác”, bỏ đi phần thô cứng, để thay bằng hình dáng đẹp đẽ hơn. “Bác” (bỏ đi) “hoán” (thay thế) là điều kiện cần thiết của chân long – long mạch chân chính. Nếu long mạch không “bác hoán”, sẽ không thể vinh hiển phú quý.
Long mạch thật là do những ngọn núi lớn trải qua quá trình bác hoán mà thành. Khi tìm long mạch, nếu gặp đỉnh núi cao, sẽ phải bỏ đi phần thô nặng của nó mà thay thế vào đó là phần nhẵn nhụi. Sự bào mòn và thay thế đó có thể khiến ngọn núi từ thô kệch, chắc chắn trở nên nhẵn nhụi, đẹp đẽ. Quá trình này vô cùng kỳ kiệu. Cứ tiếp tục bào mòn, thay thế như vậy cho đến tận cùng để có thể nhìn thấy chân long xuất hiện. Hình dạng của chân long là một ngọn núi nhỏ đứng thẳng, là một thể thống nhất với hình dạng thực của núi – cũng chính là tổ sơn của nó.
Cũng như vậy, để kết huyệt tốt, long mạch Ba Vì trải qua quá trình “bác hoán” rõ ràng nổi trội, long mạch từ núi cao chạy đến đất bằng, bắt đầu đứt rời khỏi mạch tổ tông, thay thế bằng hình dáng đẹp đẽ hơn. Long mạch hùng vĩ, đến phần “giới thủy” là dòng sông Đà đang chạy theo bảo vệ, bỗng quay mình chảy ngược, long mạch Ba Vì cũng vì thế mà đi chìm dưới dòng sông, và đột khởi nổi lên, chia thành hai nhánh, một nhánh vươn mình đi tiếp, một nhánh nổi lên xoay mình là núi Ba Vì, chuẩn bị kết huyệt.
Một phần long mạch Ba Vì xoay mình, chuẩn bị kết huyệt khi một phần long mạch tụ khí, không đi tiếp. Do không đi tiếp được, phải quay đầu lại, gọi là hồi long.
Đặc điểm của nơi kết huyệt, là nơi hai dòng nước giao nhau, ôm vòng bao bọc, khí sinh ra sẽ được giữ lại. Đồng thời, thủy khẩu nhiều hộ sa: nhiều núi hộ vệ ngăn chặn, bao bọc trước và sau thủy khẩu, không cho sinh khí thất thoát.

Phong thủy Quảng Ninh (p2)

tiếp phần 1
PHẦN 2
PHONG THỦY KHU VỰC VÀ CHIẾN TRẬN TÂM LINH .

Trong phần này , người viết lần lượt dạo qua từng khi vực từ Bãi cháy - Tp, HẠ LONG và các khu vực khác của Tỉnh Quảng ninh .
1/ BÃI CHÁY :
Từ Hà nội lên Quảng ninh , chúng ta gặp khu du lịch Tuần châu trước khi đến Bãi cháy . Như phần trên đã viết , Đảo du lịch Tuần châu mới được đầu tư khi thác trong những năm gần đây . Trước kia , đây là một hòn đảo nằm cách đất liền gần 2Km . Ngày tước Đảo Tuần châu là một hòn đảo rất thơ mộng với rừng thông xanh mướt che phủ toàn bộ hòn đảo . Nơi đây có những cây thông cổ thụ rất to . Đứng từ trong đất liền , khi thủy triều xuống , ta thấy nhô lên những khối đá ngầm có dạng hình cái bút , nghiên mực , cờ , trống , bảng vàng , quy tụ hầu như đủ cho một Huyệt mạch phát về Văn lên tới chức Tam công . Bây giờ , nếu bạn ra đảo Tuần châu thì rừng thông xưa chỉ còn trong chuyện kể . Những người chủ khai thác làm du lịch , ngu dốt hay vì lợi nhuận đã phá hủy toàn bộ rừng thông trên đảo ,. khiến cho người ta có cảm giác , đảo Tuần châu như một cái đầu trọc , cắt nham nhở . Toàn bộ Đảo Tuần châu bây giờ nếu đứng từ trong đất liền nhìn ra trông như một con quái vật xấu xí , lở lói . Con đường ra Đảo được xây dựng bằng cách đổi đất Đảo lấy đường , mặc dù thuận tiện , nhưng đã phá hỏng thế Phong thủy của Đảo Tuần châu . Nếu ngày xưa , người ta chỉ cần xây một chiếc cầu bê tông to , rộng với dáng vẻ mềm mai thì thật là tốt . Các công trình xây dựng trên đảo , về mặt đầu tư thật tốn kém , nhưng không khỏi hài hước khi nhìn vào bằng con mắt của nhà Phong thủy . Chủ đầu tư là một người có lẽ không được bình thường , nếu xét về góc độ kinh doanh .Một phần tư đảo ( Là giá trị đổi đất khi xây dựng con đường ) được xây dựng vô cùng khôi hài . Tất cả những công trình trên đó đều là tác phẩm bắt chiếc mỗi khi chủ nhân của nó đi du lịch đâu đó . Thậm chí , người ta còn kể rằng , có lần , một cô ca sĩ ra thăm Đảo , hứng chí , cô bèn " Hiến kế " cho Ông chủ rằng , nếu dọc hai bên đường đi mà để những chiếc chum to , trong đó có trồng cây bông giấy thì thật đẹp . Được lời như cởi tấm lòng , ngay trong ngày , Ông chủ lệnh cho người bà con cô ca sĩ , lủ khủ khuân về hàng trăm cái chum có trồng bông giấy , đặt suốt dọc con đường vào khu du lịch của Ông . Ai có về thăm khu du lịch Tuần châu , đi ngang qua những chiếc chum có trồng bông giấy còi cọc , lèo tèo mới thấy hết vẻ hài hước của nó . Trong khu du lịch này , có lẽ tốn kém và mất thời gian nhất với ông chủ là một căn nhà trắng toát mang dáng của của điện Ê ly dơ hay tòa nhà bên sông Pô tô mát ở Mỹ . Chỉ có điều nó lại quá mi ni . Công trình này được xây lên , đập ra , xây lại nhiều lần mà có vẻ chưa được như ý , nên có lẽ còn phải đập đi , xây lại vài lần , tốn hàng tỷ đồng hoang phí . Cách bố cục của khu Du lịch này cũng rất là bất hợp lý . Được một phần Đảo Tuần châu đẹp nhất , ông chủ đã thiếu hẳn một tầm nhìn chiến lược và có lẽ được vài Thày Phong thủy vườn chỉ vẽ , làm ra một khu du lịch tốn kém hàng nghìn Tỷ đồng nhưng không có doanh thu vì không đủ sức thu hút khách Du lịch .Theo đánh giá của giới chuyên môn , hiện doanh thu từ khu Du lịch này không đủ để trả tiền điện và tiền nhân viên chứ hòng gì có lãi . Nguồn đầu tư vào đây , chủ yếu là tiền đi vay nên chi phí về tiền lãi hàng ngày thực khủng khiếp . Nếu không có một chiến lược đầu tư cụ thể và hoàn hảo , người viết tin rằng sẽ lại có một Tăng Minh Phụng thứ hai của Việt nam xuất hiện .
Về mặt Phong thủy , hình tượng đập vào mắt những người lần đần đến Tuần châu là cửa vào có dáng cách điệu một con chim đang bay .



Nhưng , nếu từ trong Đảo nhìn ra , phần chỏm núi trước mặt con chim , giống như cái đầu của nó đã bị san ủi làm nền nhà . Đứng vào lúc hoàng hôn , nhìn con chim không đầu đang bay thật là rùng rợn . Ngay tại khu đấy này , khi san ủi để làm biệt thự , người ta đã phát hiện được rất nhiều hũ tiền cổ của người xưa chôn lại . Theo nhận xét của người viết , khu núi trước mặt cổng vào khu Du lịch tuần châu bây giờ , có một túi nước rất lớn nằm trong bụng núi . Bằng cớ là ngay tại khu vực đang san ủi trên núi , có một nguồn nước chảy ra rất mạnh chảy ra . Ngay tại đây , ngày xưa có một con suối nhỏ trong vắt chẩy suốt đêm ngày .
Tác giả tại cổng khu Di lịch .


MỘT SỐ CẢNH TRÊN KHU DU LỊCH 



HÌNH NHỮNG QUẢ NÚI BỊ GỌT ĐẦU ĐỂ LẤY ĐẤT LẤP BIỂN VÀ MẶT BẰNG





Tại khu vực khu 4A - Tổ 11 - Bải cháy có một con đường , uốn lên lượn xuống và ngay sát bên sườn núi . Nơi đây chính là lưng của một nhánh Long ( Chi Long ) đang có dáng từ dưới nước bò lên bờ . Khu vực này có nhiều Khách sạn lớn . Tại khu vực trũng nhất của đường phố , do hai đầu dốc đổ vào chính là Rốn của Long mạch . Long mạch ở đây kết Huyệt cực Âm , nên chỉ phát mạnh mẽ cho Phu nữ . Hầu như các chủ nhà hàng , Khách sạn trong khu vực đường phố này đều là bà Giá ( Chết hoặc ly dị chồng ) hoặc cùng lắm là Bà chủ nắm quyền binh trong nhà .
Tại khu vực một ngọn đồi rất đẹp ( Có lẽ vị trí đẹp nhất khu vực Bãi cháy) có một quả đồi tròn trịa như một trái châu có diện tích khoảng độ gần 4 Ha. Tuy là vị trí đắc địa nhất của bãi cháy , nhưng hiện nay quả đồi này vẫn phải bỏ hoang phế . Lý do : Trước đã có 3 chủ đầu tư nhẩy vào sau quá trình tranh giành quyết liệt . Cả 3 Ông chủ lớn sau khi động thổ khởi công xây dựng tại quả đồi này đều lăn đùng ra chết một cách khó hiểu sau một thời gian rất ngắn . Thời gian sau này , nhiều người cũng hăm he muốn nhẩy vào , nhưng vì sợ chết nên không dám , quả đồi hiện nay vẫn để không trước cặp mắt thèm thuồng của biết bao người . Người viết đã đi khảo sát quả đồi này , thấy Âm khi bốc lên ngút trời . Chắc chắn tại ngọn đồi này có sự Trấn Yểm lâu năm của người Hoa . Đây cũng là mục tiêu tìm hiểu trong chuyến khảo sát của người viết . Mong cao Cao nhân trong Vietlyso hỗ trợ , tìm cách hóa giải theo khả năng của mình .
ĐÂY CHÍNH LÀ HÌNH ẢNH QUẢ ĐỒI MÀ NGƯỜI VIẾT TẠM ĐẶT TÊN LÀ ĐỒI CHẾT TẠI BÃI CHÁY .


( Lạ là khi chụp ảnh bằng máy khá tốt , tất cả gần chục bức hình đều mờ tịt )

Một nhà Phong thủy Đài loan cũng đã từng nói ( Bằng văn bản ) - Đây là Huyệt cực âm , nên nếu đàn bà ra tay thì còn có cơ thành công . Đây là một cuộc chiến thực sự và kết quả là tính mạng của bản thân chứ không phải là vài độ nhậu đâu . Tất cả các Thày Phong thủy Đài loan , Ma cao , Hồng công và vô số thày Tàu , Thày ta đã đã bỏ của chạy lấy người rồi đó . Bản thân , dienbatn về cũng ốm mất cả tuần dù có sự hỗ trợ rất mạnh về nội lực của NNC Nguyễn Quang Phú .
Nhà Ngoại cảm NGUYỄN QUANG PHÚ đang trợ giúp cho dienbatn trong một buổi lễ tại QUẢNG NINH .



Khách sạn này khi khởi công có vô số Thày Tàu đến làm lễ , nhưng khi khoan móng đổ bê tông , tới khi phun bê tông xuống thì bao nhiêu xe bê tông đều bị trôi đi đâu mất cả - Y như là lỗ khoan không có đáy vậy . Phải đến khi mời Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH ra hóa giải mới xây dựng được .


ĐỀN CÁI LÂN BÃI CHÁY .

Đền Cái lân này mới xây dựng lại sau này vì đền cũ ở phía trước mặt bị giải tỏa làm khu công nghiệp . Khu vực đền cũ ngày xưa rất thiêng . Nghe kể lại , ông chủ khu công nghiệp đó là người nước ngoài . Lúc đầu chỉ có ý định phá đền làm khu công nghiệp , không có ý định xây lại . Mới làm có ít bữa , một đêm , ông nằm chiêm bao thấy có một vị Thần đến mắng rằng : " Nhà ngươi không lo xây lại đền cho ta thì dòng họ nhà người sẽ bị tuyệt diệt " . Kể từ đó vợ con ông này ở nước ngoài đột nhiên phát bệnh thập tử nhất sinh . Ông vội kêu người cho xây dựng lại Đền này như các bạn thấy trên hình . Sau khi xây xong , nhờ Thày làm lễ xin xá tội , gia đình ông ta mới được bình yên . 


ĐỀN CỬA ÔNG- THỊ XÃ CẨM PHẢ.

Cùng Kiếp bạc- Hải dương và Yên Tử- Uông bí , Đền Cửa Ông là một trong những di tích nhà Trần hào hùng trong Lịch sử, rất nổi tiếng và linh thiêng ở vùng Đông Bắc - Việt nam.
Hàng năm , cứ vào ngày mùng 2 tháng giêng cho đến hết tháng ba âm lịch , hàng vạn người " Ngựa xe như nước , Áo quần như nêm " đổ về dự hội. Trong tíết Xuân mát mẻ , mưa bụi giăng lất phất , trầm hương thơm ngát , đâu đó mổi lên vài tiếng chuông , tiếng mõ như điểm lại quá khứ hào hùng của dân tộc Việt nam chống giặc ngoại xâm nơi địa đầu đất nước.



dienbatn và ông thủ Đền . 


TƯỢNG TRẦN QUỐC TẢNG . 


Cửa Ông là một đơn vị hành chính Phường , trực thuộc Thị xã Cẩm phả . Phía Đông giáp Mông dương , Bắc giáp Cẩm Phú và Cẩm thịnh , Phía Tây và Nam giáp vịnh bái Tử Long . Địa hình Cửa Ông bao gồm nhiều thung lũng hẹp , chạy dọc theo Quốc lộ 18 , bị kẹp giữa hai dãy núi cao hơn 100m phía Bắc và Nam. Ngày xưa đây chính là con đường độc đạo đi tới vùng Đông Bắc . Cửa Ông chính là cái yết hầu nối giữa miền đông chập trùng đồi núi và đồng bằng miền Tây của tỉnh Quảng ninh .
Từ ngàn xưa , các cuộc chinh chiến xâm lược và chống xâm lược , giữa Việt nam và quận Tàu đều phải đi qua Cửa Ông . Ngày xưa , nơi đây có một đồn binh của Triều đình Việt nam canh giữ . Phía Tây và Nam của Cửa Ông là vịnh Bái Tử Long xanh ngăn ngắt , vừa là một phong cảnh Sơn Thủy hữu tình như tranh Thủy mạc , vừa là một cảng biển nước sâu rất thuận lợi cho giao thông đường Thủy . Ngoài xa bờ độ khoảng trên dưới 2Km là một vòng cung các Đảo nhấp nhô , có tác dụng che chắn sóng gió của biển khơi , tạo một chỗ trú tránh bão cho Ngư dân rất thuận tiện .
Ngay từ những ngày đầu Công nguyên , Cửa Ông đã là một đầu mối giao thương nội , ngoại vô cùng sầm uất . Ngày xưa , Cửa Ông có tên gọi là Cửa Suốt . Theo Đại Nam nhất Thống chí : " Cửa Suốt ở cách châu Tiên Yên 48 dặm về phía Tây - Nam . Phía Nam là núi đá . phía Bắc kể từ bãi cát , từ đây đi ngược lên là khe Châu Lâm và bãi cát Cẩm Phả . Trên bãi có đồn , Phía bắc đồn gọi là Vườn Nhãn , ngày xưa nhà lê dùng chỗ này để đày những tù phạm phải tội câu lưu cận châu , cách Tỉnh 2 ngày đường thủy ..."
Con đường thủy từ sông Bạch đằng , luồn qua vịnh hạ long , qua Cửa Suốt , Cửa Đại , Cửa Tiểu ( Tiên Yên ) đến Vạn Ninh ( Móng cái ) luôn lặng sóng , kín gió , trong thư tịch cổ gọi là Đông kênh . Từ Khâm châu ( Quảng Tây - Trung quốc ) đi theo con đường Thủy này vào sông Bạch đằng đầy dãy chiến tích lịch sử chỉ mất có 8 ngày .
Vào tháng 2/1149 , dưới thời LÝ ANH TÔNG , mở thương cảng Vân đồn ( Thuộc quần đảo Vân Hải ngày nay ) dùng để buôn bán , giao thương với ngoại Quốc . Tàu thuyền của các nước như Lô Lạc , Xiêm la , Trảo oa , Trung Quốc , Nhật bản ... vào ra buôn bán tấp nập . vân đồn vào suốt trong lịch sử nhà Lý , Trần , Lê được coi là một trung tâm buôn bán , giao dịch phồn thịnh .
Để có thể kiểm soát và thu thuế các tàu , thuyền ngoại Quốc , đi lại trên Đông kênh ra bến Vân đồn , nhà nước lập ra các trạm Hải quan dọc theo bờ biển , nhất là tại Cửa Suốt . Trạm Hải quan tại Cửa Ông gọi là Đồn Suất Ti Tuần . Cửa biển có đồn Suất Ti Tuần gọi là Cửa xuất ( Trong ý nghĩa xuất - nhập ) , về sau này bị gọi chệch ra là Cửa Suốt .Cửa Ông là một khu vực nằm trong một vùng văn hóa thời Tiền sử rất rạng rỡ . Đó là thời đại Đồ Đá mới mà khoa Lịch sử gọi là NỀN VĂN HÓA HẠ LONG . Các vùng xung quanh Cửa Ông như Tam hợp ( Cẩm phả ) , Ngọc Vừng , Soi Nhụ ( Vân đồn ) ...đã phát hiện được rất nhiều di chỉ Văn hóa hạ long . Dải rác trong một vùng rộng lớn nơi đây , người ta đã phát hiện rất nhiều Tháp đất nung cổ .Tháp đất nung chính là đồ tùy táng đặc trưng cho thời kỳ Phật giáo thịnh trị của triều đại Lý . Trần .
Tuy nhiên , Cửa Ông khiến người ta biết đến nhiều không phải hoàn toàn do những điều đã viết ở trên mà là nơi đây có di tích đền thờ Đức Ông TRẦN QUỐC TẢNG - Còn gọi là HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG TRẦN QUỐC TẢNG - Con trai thứ ba của QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN .
Khởi thủy , đền Đức Ông ngày xưa là một Am thảo cỏ được xây dựng tại Vườn Nhãn ( Nay thuộc phường cẩm phú ) , nơi Trần Quốc tảng qua đời vào năm 1311 . Ngay từ ngày xưa Đền thờ Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng đã là một nhu cầu Tâm linh của dân cư trong vùng .
" Miếu Đức Ông là nơi Cửa Suốt .
Khách vãng lai thường mộ cúng dâng . "
Tới cuối thế kỷ 19 , khi mà cảng Cửa Ông được xây dựng , dân cư ngày càng đông đúc , thảo Am nhỏ bé của Hưng Nhượng Vương không đáp ứng nhu cầu Tâm linh của người dân nên đã được chuyển về nơi hiện hữu . Theo các cụ kể lại , người có công di chuyển Đền Cửa Ông về nơi đây là một người đàn bà Việt , có chồng là người Pháp . Người đàn bà này rất có tâm đối với những việc Tâm linh , nên đã bỏ ra một số tiền lớn để xây dựng Đền . Đền Cửa Ông tọa lạc trên một ngọn núi thấp trông ra vịnh Bái Tử Long, có cảnh quan tuyệt đẹp, thuộc phường Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, cách thành phố Hạ Long hơn 40 km về phía đông bắc, đã được Bộ Văn hoá Thông tin cấp bằng công nhận là di tích thắng cảnh.
Đền được xây dựng gồm ba khu vực chính: đền Hạ, đền Trung và đền Thượng, được phân bố ở ba vị trí khác nhau theo chiều lên cao dần. Đền Hạ thờ Mẫu, khu đền Thượng gồm đền chính thờ Trần Quốc Tảng, lăng Trần Quốc Tảng, đền Quan Châu, đền Quan Chánh và chùa. Đền chính lúc đầu thờ Hoàng Cầu, người anh hùng của địa phương, sau thờ Trần Quốc Tảng, người có công trấn ải vùng cửa Suốt và cũng là con trai thứ 3 của Trần Hưng Đạo.
Kiến trúc đền chính theo kiểu chữ “công” (I) gồm ba gian tiền đường, hai gian ống muống và ba gian hậu cung. Đây là đền duy nhất thờ đầy đủ gia thất Trần Hưng Đạo và các cận thần của ông còn lại đến ngày nay. Với 34 pho tượng lớn nhỏ đã được các nghệ nhân chạm trổ công phu, tỉ mỉ, sắc nét với tư thế ngồi trong ngai, khám, long đình rất cân đối, mang giá trị nghệ thuật cao. Đó là tượng Trần Hưng Đạo, tượng Thánh Mẫu (phu nhân Trần Hưng Đạo), hai công chúa (con gái Trần Hưng Đạo), Trần Quốc Tảng, Trần Anh Tông, Trần Khánh Dư, Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão, Lê Phu Trần, Đỗ Khắc Chung... và một số câu đối, đồ thờ tự khác.
Từ lâu, đền Cửa Ông đã nổi tiếng linh thiêng không chỉ đối với nhân dân Quảng Ninh, mà nhân dân các tỉnh trong nước cũng tìm đến dâng hương, trẩy hội. Lễ hội đền Cửa Ông diễn ra từ ngày 2 tháng 1 âm lịch và kéo dài đến hết xuân. Trải qua nhiều lần tu bổ , nhất là vào năm 1994 . Đền Cửa Ông đã trở thành một quần thể kiến trúc hoàn chỉnh , khang trang và đã được Nhà nước công nhận là một di tích Văn hóa - Lịch sử . 
TỪ CỬA ĐỀN NHÌN XUỐNG VỊNH BÁI TỬ LONG . 


HỆ THỐNG TƯỢNG THỜ TRONG ĐỀN 






Tại những vùng biên cương của Tổ quốc , từ xưa cho đến nay , các Vương triều nước ta , luôn cắt cử những vị Tướng tài ra trấn giữ . Sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thắng lợi rực rỡ lần thứ hai ( 1285 ) , Vua TRẦN NHÂN TÔNG và HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN càng nhận rõ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng của vùng biển đảo ĐÔNG BẮC . Đó cũng là lý do TRẦN QUỐC TẢNG , một vị tướng tài và là con thứ ba của QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN được cử ra trấn giữ vùng biên cương này .
Năm Trùng hưng thứ nhất ( 1285 ) , quân Nguyên Mông xâm lược Đất nước ta lần thứ hai . Được tin đại quân do TRẦN HƯNG ĐẠO không chống cự nổi trước thế mạnh như chẻ tre của giặc , phải rút về Vạn kiếp , TRẦN QUỐC TẢNG liền mang quân của mình từ trang ấp riêng tại An Sinh ( Đông triều ) , cùng các cánh quân Hải Đông , Vân Trà , Bà Điểm hội binh , xin làm tiên phong đánh giặc . Sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi , TRẦN QUỐC TẢNG , là dũng tướng có công nên được nhà Vua khen tặng cấp cho đất lập trang ấp tại Tĩnh bang ( Quảng ninh ) . Sau này , ông hai lần được Vua cắt cử ra Cửa Suốt trấn ải .
Và như vậy , vị Thần chủ chốt được thờ tại Đền Cửa Ông chính là TRẦN QUỐC TẢNG một vị tướng tài và là con thứ ba của QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN.
Câu đối treo cạnh một pho tượng lớn tạc một vị quan võ mặc áo hồng bào , vạt trước có đính Hổ phù chính là TRẦN QUỐC TẢNG như sau :
Bạch đằng hộ chiến công , lương tướng uy danh kinh Bắc địa .
Hải Đông lưu linh tích , anh hùng tâm sự đối Nam Thiên .
Tạm dịch :
Giúp chiến thắng Bạch đằng , tướng giỏi uy danh lừng đất bắc .
Để dấu thiêng Đông hải . anh hùng tâm sự giải Trời Nam .
Câu đối trên cũng nói lên nỗi lòng u uẩn của TRẦN QUỐC TẢNG , ngay cả sau khi chết , nó biểu hiện một nỗi lòng , một tâm trạng u uất không thể dãi bày cùng ai , chỉ có thể tâm sự cùng Trời Nam của Ông . Đọc trong Sử , ta thấy TRẦN QUỐC TẢNG bị cho là bị đày ra Tĩnh bang vì tội bất trung , bất hiếu . Nguyên chỉ vì câu nói buột mồm khi đang họp , muốn nói sự mất đoàn kết trong nội tộc họ Trần - " Thù nhà chưa xong nói chi nợ nước " . Cái oan muốn nói ra nhưng không nói được , chỉ Trời xanh thăm thẳm kia mới hiểu được nỗi lòng của Ông . Trong cuốn " TRẦN TRIỀU HIỂN THÁNH CHÍNH KINH TẬP BIÊN " , in năm Thành thái ( 1900 ) có chép như sau : " Quốc Tuấn công cho rằng , con trai tính ưa cương dũng ấy ( Tức TRẦN QUỐC TẢNG ) , không theo đúng đạo làm con , bèn nổi giận lôi đình , đày ra cửa bể Suất Ti Tuần thuộc phủ Hải ninh , lộ An bang " .
Thực ra hành động của HƯNG ĐẠO VƯƠNG TRẦN QUỐC TUẤN đối với TRẦN QUỐC TẢNG , bắt đầu từ nguyên do sâu xa là nội bộ Hoàng tộc lục đục , bất hòa . Điển hình là TRẦN LIỄU ( Cha của TRẦN QUỐC TUẤN , ông nội TRẦN QUỐC TẢNG ) mâu thuẫn với Thái sư TRẦN THỦ ĐỘ và Vua TRẦN THÁI TÔNG . Trong cuốn TRẦN TRIỀU THẾ PHẢ HÀNH TRẠNG đã chép việc đó , mà người phải hứng chịu chính là TRẦN QUỐC TẢNG như sau :
" Khi An Sinh Vương ( TRẦN LIỄU ) , sắp mất , cầm tay QUỐC TUẤN và trăn trối rằng : Mày mà không vì cha lấy được Thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt - Ý nói Quốc Tuấn phải cướp được ngôi của nhà Trần để trả thù Trần Liễu bị TRẦN THỦ ĐỘ ép buộc người vợ kế của mình đang có mang lấy TRẦN CẢNH , tức Vua TRẦN THÁI TÔNG , em ruột của TRẦN LIỄU . TRẦN LIỄU phẫn uất , chiêu tập binh mã nổi dậy bên bờ sông Cái , chống lại TRẦN THỦ ĐỘ , nhưng thất bại bị lột hết áo mũ . Quốc Tuấn để bụng , nhưng không bao giờ cho thế là phải ".
Đến khi trở thành QUỐC CÔNG TIẾT CHẾ , Tổng chỉ huy quân đội , nắm quyền tối cao , Quốc Tuấn đem lời cha dặn khi trước , hỏi ý kiến các tướng tâm phúc như : YẾT KIÊU , DÃ TƯỢNG, và con trai là HƯNG VŨ VƯƠNG . Cả ba người đều ngăn cản , khiến Quốc Tuấn rất mát lòng . Một hôm , Quốc Tuấn đem câu trăng trối của cha hỏi HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG TRẦN QUỐC TẢNG , ông bèn nói : Thái tổ là một ông lão làm ruộng mà thừa cơ dấy vận cũng đượv Thiên hạ . Quốc Tuấn nghe vậy bèn rút gương kể tội TRẦN QUỐC TẢNG : Kẻ làm phản loạn là do ở đứa con bất hiếu , ý muốn giết QUỐC TẢNG . HƯNG VŨ VƯƠNG nghe tin vội chạy đến kêu khóc xin cho QUỐC TẢNG , lúc đó QUỐC TUẤN mới tha cho và bảo rằng : Sau khi ta chết , đậy nắp quan tài rồi mới cho QUỐC TẢNG vào .
Sau khi HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG ra trấn giữ cửa Suốt , năm Trùng Hưng thứ tư ( 1288 ) quân Nguyên lại kéo quân sang xâm lược . HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG xin Triều đình lập công chuộc tội . Được chuẩn tấu , HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG tiến quân , lập đồn ở Trắc châu , Huyện Thanh lâm . Trải qua ba ngày đêm , ông đem quân đánh thẳng vào trại của quân Nguyên đóng ở sông bạch đằng và chiến thắng oanh liệt . Từ đó ông được cử làm Suất Ti Tuần Đại an , trấn giữ cửa bể Cửa suốt .

ĐỀN THỜ MẪU .


Như vậy , chúng ta để ý rằng , lần đầu bị tội mà TRẦN QUỐC TẢNG bị cha đày ra Cửa Suốt . Lần thứ 2 , nhờ lập được công lớn , TRẦN QUỐC TẢNG lại được Vua Trần cử ra Cửa Suốt trấn giữ . Hai lần trấn nhậm Cửa Suốt với hai tư thế , hai thể thức khác nhau , nhưng thực chất chỉ là một trọng trách giữ gìn một nơi quan ải Đông Bắc . Trong thời kỳ bình công , khen thưởng cuối năm 1288 , TRẦN QUỐC TẢNG được sắc phong là Tiết độ Sứ . Từ 1288 đến khi qua đời , phần lớn thời gian TRẦN QUỐC TẢNG giành cho việc trấn giữ vùng Đông Bắc này của Tổ Quốc . Do những công lao to lớn mà Vua TRẦN ANH TÔNG ( Đồng thời cũng là con rể của TRẦN QUỐC TẢNG ) , phong tước hiệu HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG .
Sách sử ghi lại những ngày cuối đời của TRẦN QUỐC TẢNG ở Cửa Suốt như sau :
" Ông ra Cửa Suốt được ba ngày , tự nhiên Trời mưa to , gió lớn , sấm sét nổ ầm ầm . Ông thấy một phiến đá to bèn ngồi lên . Ngay lúc đó sóng nổi cuồn cuộn , nước dâng lên rất cao . Phiến đá tự nổi trên mặt nước , HƯNG NHƯỢNG VƯƠNG hóa thân ở đó , vào ngày 16/8/1311 . Một lúc sau mưa tịnh , gió lặng , dân chúng kéo đến xem , thấy trên phiến đá có một cái mũ đá , mũ đá trôi đi . Ngày 1/9 năm ấy , mũ đá trôi đến địa giới Hàm giang , rồi đến bờ sông xã Trúc Châu ( Tên tục là Vườn Nhãn ) . Già trẻ , lớn , bé trong xã đang đêm hôm đó mộng thấy một người cân đai , áo mũ chỉnh tề , đứng ở Đình làng bảo rằng : " Ta là Gia Tướng nhà Trần , nay số đã hết , lại trở về đóng nơi đồn cũ giữ yên dân , nước " . Hôm sau dân chúng ra Đình xem , thấy một tảng đá và một mũ đá bên bờ sông . Đo phiến đá được 5 thước 4 tấc ,ngang 2 thuớc 3 tấc , có 5 màu huyền ảo như mây . Dân làm lễ đón mũ đá về lập miếu thờ và làm biểu tâu lên Vua . Vua thấy TRẦN QUỐC TẢNG là người có công , lại linh ứng nên truyền cho lập miếu thờ và phong cho làm Thượng đẳng Phúc Thần , cho 800 quan tiền công hàng năm hai mùa cúng tế vào bậc Nhà nước . "
Năm 1314 , đúng một năm sau TRẦN MINH TÔNG lên ngôi , , đã truy tặng TRẦN QUỐC TẢNG chức Thái úy .
Nhân dân truyền tụng ca ngợi TRẦN QUỐC TẢNG như sau :
Đời Trần thị mở mang Nam Hải ,
Đức Đệ Tam dòng dõi kim chi ,
Mấy phen giáp mã truy chùy ,
Đã bình Phạm đảng lại đi phạt Sầm .
Phong Đại Vương an tâm thần chức
Lại đem câu yến dực ra bàn .
Nghĩa rằng đạo hiếu chu toàn .
Nào ngờ phải bước tiếng oan ở Đời .
Dạ gang tấc khổ bày khúc trực
Để thanh Thiên vằng vặc sáng soi .
Mấy năm tính kế cùng ai .
Đành rằng đem xuống Tuyền đài cho cam .
( Viết theo THẦN ĐỀN CỬA ÔNG - THI SẢNH ) .